Thông tin mới về đại dự án Lô B - Ô Môn đã "phả hơi nóng" vào nhóm cổ phiếu dầu khí sau xu hướng giảm hoặc đi ngang kéo dài khoảng nửa năm qua, giúp nhóm cổ phiếu này giao dịch sôi động trở lại.
Trong khoảng 6 tháng gần đây, nhóm cổ phiếu dầu khí có xu hướng giảm. Tuy nhiên, nhóm cố phiếu này đã bắt đầu có tín hiệu khởi sắc trở lại kể từ phiên 18/12 khi các đại diện tăng giá mạnh. Đà tích cực này tiếp tục diễn ra trong phiên 19/12.
Tín hiệu khởi sắc
Đáng chú ý, trong phiên 18/12, cổ phiếu PVB của CTCP Bọc ống Dầu khí Việt Nam (PV Coating) tăng hết biên độ lên mức giá 30.200 đồng/cp, qua đó tiến lên vùng giá cao nhất trong vòng 2 tháng. So với đầu năm, giá trị cổ phiếu PVB đã bật tăng tới 42%.
Cùng với đó, thanh khoản khớp lệnh của cổ phiếu này ghi nhận mức cao đột biến với hơn 777.000 đơn vị được giao dịch, cao gấp gần 10 lần so với trung bình 10 phiên gần nhất.
Nhóm cố phiếu dầu khí bắt đầu có tín hiệu khởi sắc trở lại sau khoảng 6 tháng có xu hướng giảm.
HĐQT PV Coating vừa công bố nghị quyết về việc ký hợp đồng bọc ống (Onshore Coating of Line pipe and Bend) – Dự án EPC Đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn với Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PVS).
Hợp đồng có giá trị gần 426 tỷ đồng, có thời gian thực hiện trong vòng 282 ngày kể từ ngày ký hợp đồng (16/12/2024).
Đại dự án Lô B - Ô Môn là dự án trọng điểm, được mong chờ nhất của ngành dầu khí trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, tổng mức đầu tư lên đến gần 12 tỷ USD. Dự án bao gồm mỏ khí Lô B (thượng nguồn), đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn (trung nguồn), và 4 nhà máy điện khí tại Trung tâm Điện lực Ô Môn với tổng công suất dự kiến 3.800 MW. Trong đó, tổng chiều dài đường ống dẫn khí của dự án là 431km, bao gồm 329km dưới biển và 102km trên cạn.
Điều này đã "phả hơi nóng" vào cổ phiếu PVB nói riêng và nhóm cổ phiếu dầu khí nói chung. Đồng thời, giao dịch tại nhóm cổ phiếu này trở nên sôi động trong bối cảnh thị trường vẫn thiếu vắng thanh khoản, cho thấy đây thực sự là tín hiệu đáng chú ý đối với nhóm cổ phiếu này.
Thực tế, theo quan sát, thị giá của hầu hết cổ phiếu dầu khí hưởng lợi từ Dự án Lô B đều có diễn biến khởi sắc trong khoảng thời gian nửa đầu năm, điển hình như PVB hay PVS.
Cơ hội lớn trong năm 2025
Ông Đào Hồng Dương - Giám đốc Phân tích Ngành và Cổ phiếu, CTCP Chứng khoán VPBank (VPBankS) đánh giá ngành dầu khí gặp thách thức từ quốc tế nhưng rất lạc quan về nội địa. Bởi, xu hướng về mặt giá dầu với 4 phân khúc chịu áp lực giảm từ quốc tế, song với kế hoạch đầu tư thượng nguồn cũng như biến động thị trường trong nước lại tạo ra nhiều cơ hội mang tính chu kỳ cho ngành dầu khí nói chung.
Trong 9 tháng đầu năm, lợi nhuận sau thuế của nhóm dầu khí đã ghi nhận 19.100 tỷ đồng, giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. VPBankS dự phóng năm 2024, toàn ngành sẽ đạt lợi nhuận khoảng 25.300 tỷ đồng. Đồng nghĩa là quý IV kết quả tương đối tích cực. Sang năm 2025, lợi nhuận ngành được dự báo sẽ tăng khoảng 21% so với 2024. Do vậy, ông Dương cho rằng có rất nhiều cơ hội đối với ngành dầu khí trong năm tới.
Theo đó, 2 động lực chính từ trong nước cho ngành dầu khí trong năm 2025 là nhu cầu thượng nguồn về mở rộng hoạt động khai thác dầu khí và tăng trưởng kinh tế tạo nhu cầu cao về hạ nguồn (khí đốt, đạm…). Do vậy, chuyên gia nhận định nhà đầu tư có thể tìm kiếm cơ hội tại một số cổ phiếu dầu khí có triển vọng tích cực như GAS, PVS, PVD…
Trong báo cáo cập nhật mới đây, Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng triển vọng ngành dầu khí Việt Nam năm 2025 vẫn tích cực với nhiều yếu tố kỳ vọng.
Trước tiên, giá dầu vẫn duy trì khả quan theo dự báo các tổ chức lớn về triển vọng giá dầu 2025. Những rủi ro địa chính trị đang diễn ra và việc dự trữ dầu toàn cầu giảm do việc cắt giảm sản lượng của OPEC+ kể từ năm 2022 (tổng cộng 5,86 triệu thùng/ngày, tương đương khoảng 5,7% nhu cầu toàn cầu), có thể sẽ giúp cân bằng thị trường dầu trong vài tháng tới.
Bên cạnh đó, ngành khoan dầu khả quan từ các hoạt động khoan ở khu vực Trung Đông sẽ là điều kiện thuận lợi mang đến triển vọng tốt về giá thuê giàn khoan, cũng như các hợp đồng ký với thời hạn 2-3 năm giúp tăng hiệu suất hoạt động giàn.
Số lượng giàn khoan thặng dư trên thị trường dự kiến sẽ giảm từ 50 giàn vào đầu năm 2024 xuống 40 giàn trong cuối năm 2024 trước khi duy trì ở mức này cho đến tháng 11/2025. Với bối cảnh trên, dự báo giá cho thuê giàn khoan khu vực Đông Nam Á sẽ tiếp tục neo cao, giá cho thuê giàn khoan tại Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung.
Đồng thời, việc phát triển các dự án nội địa góp phần đảm bảo phát triển ngành điện phù hợp với các mục tiêu quốc gia và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tiến độ các dự án nội địa được đẩy nhanh sẽ hỗ trợ hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí (E&P) của các doanh nghiệp thượng nguồn.
Theo VCBS, nguồn cung khí nội địa mới cho điện khí chỉ còn nguồn khí miền Trung (Cá Voi Xanh và Báo Vàng) và nguồn khí Lô B. Tổng cung khí cho điện giai đoạn 2035-2045 sẽ chỉ còn duy trì khoảng 7,7 tỷ m3/năm.
Trong phần trữ lượng nguồn khí nội địa đã phát hiện nhưng chưa khai thác đến hiện nay, trữ lượng từ các dự án này chiếm tới 30%, bằng với trữ lượng còn lại của các mỏ đang khai thác. Luật Điện lực (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1/2/2025 ưu tiên phát triển điện khí sử dụng khí nội địa, đồng nghĩa với việc huy động cao từ mỏ khí trong nước như Lô B cho thấy quyết tâm phát triển các dự án trong nước của Chính phủ.
Ngoài ra, với nhu cầu điện ngày càng tăng, nhu cầu khí trong nước cũng được dự báo tăng tương ứng trong các lĩnh vực như hóa chất, công nghiệp, giao thông vận tải, đô thị và đặc biệt là sản xuất điện (chiếm 80%)…
Tổng nhu cầu khí dự kiến theo quy hoạch ngành khí (nhu cầu cơ sở) lên tới khoảng 13 tỷ m3 vào năm 2020, hơn 22 tỷ m3 vào năm 2025 và trên 34 tỷ m3 vào năm 2030. Bên cạnh đó, theo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu năng lượng từ than đá sang các nguồn năng lượng phát thải thấp để đáp ứng cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050. Tổng quy mô công suất điện khí và LNG đến năm 2030 được quy hoạch là 30,4 GW (LNG: 22,5 GW, khí nội địa: 7,9GW).
Do đó, mức tiêu thụ khí đốt cũng được dự báo tăng trong trung và dài hạn mặc dù khí tự nhiên được coi là một nhân tố ngắn hạn trong lộ trình chuyển dịch năng lượng. Nhóm phân tích VCBS nhận định mục tiêu dài hạn của chiến lược là xây dựng lộ trình để các nhà máy điện khí LNG chuyển đổi sang kết hợp hydro vào cơ cấu phát điện, sự chuyển dịch sang sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) không chỉ giúp duy trì sự ổn định cho hệ thống điện quốc gia mà còn đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn cho Việt Nam.